Phân tích trắc lượng thư mục xu hướng công bố tinh dầu của Việt Nam trong vòng 20 năm (2005 - 2025)

Việt Nam sở hữu tiềm năng nguồn dược liệu chứa tinh dầu có giá trị dược lý và kinh tế. Bằng phương pháp trắc lượng thư mục (Bibliometric analysis) nghiên cứu phân tích hoạt động công bố về tinh dầu của các nhà khoa học Việt Nam trên có sở dữ liệu Scopus trong vòng 20 năm (2005–2025).

Khí hậu nhiệt đới gió mùa, độ ẩm cao, nền nhiệt ổn định và lượng mưa dồi dào đã tạo điều kiện lý tưởng cho sự sinh trưởng và tích lũy tinh dầu ở nhiều loài thực vật tại Việt Nam. Sự đa dạng sinh học cao, đặc biệt ở các vùng núi và trung du, là nền tảng quan trọng cho phát triển nguồn dược liệu chứa tinh dầu có giá trị dược lý và kinh tế [1]. Nhờ vậy, Việt Nam được xem là mỏ “vàng xanh” của ngành công nghiệp chiết xuất tinh dầu. Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã có những chính sách quan trọng nhằm phát triển các dự án về tinh dầu hương liệu ở các vùng như Tây Bắc, Tây Nguyên,… Song song với các chiến lược thực tiễn, liệu rằng trong vòng 20 năm qua, các nhà khoa học Việt Nam đã có những nghiên cứu và công bố về tinh dầu như mong đợi?

Để trả lời câu hỏi trên, tác giả sử dụng phương pháp trắc lượng thư mục (Bibliometric analysis) phân tích thực trạng công bố tinh dầu của các nhà nghiên cứu Việt Nam trong vòng 20 năm. Nghiên cứu thực hiện tìm kiếm các bài nghiên cứu gốc (article) trên cơ sở dữ liệu Scopus vào ngày 28/05/2025, từ khóa “essential oil”, giới hạn thời gian 20 năm (2005 – 2025), thu nhận được 84,823 công bố trong lĩnh vực này; trong đó, Việt Nam đóng góp 845 công bố (1%), đây là một con số đang ghi nhận cho sự nỗ lực ghi dấu vào bản đồ khoa học tinh dầu thế giới, mở ra cơ hội cho sự phát triển giữa thực tiễn kết hợp với khoa học công nghệ.

Tiếp đến, với sự trợ giúp của phần mềm VOSviewer 1.6.20 và công cụ phân tích dữ liệu Scopus, tác giả tiến hành đánh giá và xây dựng bản đồ  bằng chứng (evidence map) về công bố liên quan đến tinh dầu của các nhà khoa học Việt Nam trong vòng 20 năm (2005- 2025).

Hình 1 biểu diễn số lượng công bố khoa học về tinh dầu tại Việt Nam theo thời gian. Các công bố tăng dần và bắt đầu tăng rõ từ năm 2018 (24 công bố), giảm nhẹ vào năm 2021 có lẽ là hậu quả giãn cách xã hội do Covid 19, nhưng các công bố bắt đầu tăng vọt vào năm 2024 (134 công bố).

Hình 1. Số lượng công bố khoa học về tinh dầu theo thời gian (2005- 2025)

Hình 1. Số lượng công bố khoa học về tinh dầu theo thời gian (2005- 2025)

Hình 2. Mười tổ chức có công bố nhiều nhất về tinh dầu tại Việt Nam (2005- 2025)

Ba tổ chức có công bố nhiều nhất lần lượt là Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam (282), Đại học Vinh (205), Đại học Nguyễn Tất Thành (97). Số lượng công bố của ba tổ chức này cộng lại đã đóng góp gần 70% trong tổng số các công bố được ghi nhận.

Hình 3 cho thấy 10 tác giả có số công bố nhiều nhất trong lĩnh vực này.

Hình 3. Mười tác giả có công bố nhiều nhất về tinh dầu tại Việt Nam (2005- 2025)

Trong đó, tác giả Đỗ Ngọc Đài (Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) là tác giả có số công bố lớn nhất với 138 công bố, H-index 18, tác giả công bố nhiều lĩnh vực khác nhau liên quan đến tinh dầu, trong đó các chủ đề có chỉ số FWCI cao hơn là “essential oi, antiinfective agent, Escherichia coli” (FWCI: 1,4). Tác giả Ogunwande, Isiaka Ajani (Viện nghiên cứu và dịch thuật nước ngoài, Nigeria) có số công bố đứng thứ 2, H – index 26, lĩnh vực có ảnh hưởng là “odor, perfume, covid 19” (FWCI: 1,21). Tác giả Lê Thị Hương (Đại học Vinh) có số công bố là 116, H – index 17, chủ đề có chỉ số FWCI cao tương đồng với chủ đề của tác giả Đỗ Ngọc Đài. Khi tiến hành phân tích mối liên quan, dễ dàng nhận thấy ba tác giả có số công bố lớn nhất đã hợp tác với nhau và tạo ra sức mạnh trong nghiên cứu.

Hình 4 trình bày mười tổ chức cấp kinh phí để thực hiện nghiên cứu tinh dầu cho các nhà khoa học ở Việt Nam và có công bố nhiều nhất là: Quỹ khoa học và công nghệ quốc gia, Viện hàn lâm khoa học công nghệ Việt Nam, Đại học quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ giáo dục và đào tạo, Trường đại học Nguyễn Tất Thành, Đại học Huế, Bộ giáo dục, văn hóa, thể thao Việt Nam; Quỹ xúc tiến khoa học và xã hội Nhật Bản; Đại học London; Đại học King Saud.

Hình 4. Mười tổ chức cấp kinh phí nghiên cứu có công bố về tinh dầu nhiều nhất (2005- 2025)

Thực hiện phân tích sự xuất hiện của các các từ khóa bằng phần mềm VOSviewer 1.6.20, nghiên cứu thu nhận được 04 cụm chủ đề được biểu diễn tại Hình 5.

Hình 5. Bản đồ đồng xuất hiện các từ khóa (ghi nhận sự xuất hiện từ 50 lần trở lên)

Bản đồ đồng xuất hiện từ khóa đã thể hiện các xu hướng chính trong nghiên cứu, cụ thể như sau:

Cấu trúc và thành phần hóa học được công bố: monoterpenes, sesquiterpenes, caryophyllene, linalool, pinene, limonel, caryophyllene, cineol, myrcene, sapinene.

Nghiên cứu hoạt tính sinh học được nghiên cứu: tác dụng kháng khuẩn, chống oxy hóa thử nghiệm sinh học in vitro/in vivo.

Kỹ thuật chiết xuất, phân tích và định danh tinh dầu được sử dụng: hydrodistillation, mass spectrometry, GCMS.

So sánh với công bố về tinh dầu trên thế giới trong bài viết trước đây, công bố tại Việt Nam đang còn hạn chế trong các lĩnh vực  liên quan đến nghiên cứu đánh giá tác dụng trên động vật, thử nghiệm lâm sàng và ứng dụng tinh dầu trong điều trị lo âu, thư giãn, hỗ trợ chăm sóc sức khỏe ở người trưởng thành.

(DSCKII. Trần Cao Thụy Hạ Lan nghiên cứu và tổng hợp)

Tài liệu tham khảo

[1]  Nguyễn, V. C., Trần, T. H., & Lê, Q. T. (2020). Tài nguyên thực vật dược Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.